Lịch sử văn hóa Việt Nam là niềm tự hào của người Việt Nam. Tiến trình tạo nên lịch sử văn hóa Việt Nam chia ra nhiều giai đoạn. Dưới đây là sơ lược về các lịch sử cùng xem dưới nhé.
Quá trình văn hóa Việt Nam
Tiến trình kiến thức VN đủ nội lực tạo thành 6 giai đoạn: kiến thức tiền sử, kiến thức Văn Lang – Âu Lạc, văn hóa thời chống Bắc thuộc, kiến thức Đại Việt, kiến thức Đại Nam và kiến thức tân tiến. Sáu công đoạn này chia thành ba lớp: lớp kiến thức bạn dạng địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và Quanh Vùng, lớp kiến thức giao lưu với phương Tây.
Triết học và tư tưởng
Ban đầu chỉ là các nhân tố thoải mái và tự nhiên nguyên thuỷ thô sơ về duy vật và biện chứng, tâm lý người Việt trộn lẫn với tín ngưỡng. Tuy nhiên, khởi nguồn từ gốc văn hóa nông nghiệp, khác với gốc văn hoá du mục tại vị trí trọng tĩnh hơn động, lại có liên quan nhiều với những vẻ ngoài tự nhiên. Tư tưởng triết học Viet Nam khác lạ chăm sóc đến những mối quan hệ mà item điển hình là thuyết âm dương ngũ hành (không hoàn toàn giống Trung Quốc) và biểu thị cụ thể rõ ràng nhất là lối sống quân bình hướng tới sự hài hoà.
Tiếp nối, chịu nhiều tác động tâm lý của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo được dung hợp and Việt hoá đang góp thêm phần vào thành công của thế giới and văn hoá Viet Nam. Khác biệt những nhà Thiền học đời Trần đã suy nghĩ và kiến giải phần lớn những vấn đề triết học mà Phật giáo đề ra (Tâm-Phật, Không-Có, Sống-Chết…) 1 cách độc đáo, đơn lẻ.
Tuy Nho học trong tương lai phồn thịnh, nhiều danh nho Việt Nam cũng không nghiên cứu Khổng-Mạnh một cách câu nệ, mù quáng, mà họ chào đón cả trí não Phật giáo, Lão-Trang nên tâm lý bọn họ có phần thanh thoát, phóng khoáng, sát nhau nhân dân & hoà với thiên nhiên hơn.
Ở những triều đại chuyên chế quan liêu, tâm lý phong kiến nặng đè nén nông dân and trói buộc phụ nữ, nhưng nếp dân chủ buôn bản, tính số đông nguyên thuỷ không bị mất bên trên cơ sở tài chính nông nghiệp tự cấp tự túc. Cắm rễ sâu trong xã hội nông nghiệp VN là tâm lý nông dân có khá nhiều nét tích cực và tiêu biểu cho loài người VN cổ xưa. Bọn họ là nòng cốt chống ngoại xâm qua những cuộc nội chiến & nổi dậy. Chúng ta sản hiện ra nhiều tướng lĩnh tài giỏi, lãnh tụ nghĩa quân, mà dữ dội là người nhân vật áo vải Quang Trung-Nguyễn Huệ cuối thế kỷ 18.
Chính sách trọng nông ức mến, chủ công dưới triều Nguyễn, khiến cho suy nghĩ thị dân lờ đờ phát hành. Viet Nam xưa kia coi trọng nhất nông nhì sĩ, hoặc nhất sĩ nhì nông, mến nhân bị khinh rẻ, các ngành khác thường bị xem như là ngành phụ, kể cả vận động văn hoá.
Chủ đề định hình quan trọng đặc biệt văn hoá
Nếu hiểu văn hoá là các trị giá vật chất & tinh thần, có tính biểu trưng và hiện hữu lâu lăm do con người tạo ra, thì dân tộc nào cũng có văn hoá, số đông nào cũng có văn hoá. Có những trị giá văn hoá mang tính chất hằng thể phổ biến cho cả trái đất, lại có những giá trị văn hoá mang ý nghĩa đặc điểm, chỉ có ở cộng đồng này mà không thấy rõ rệt ở số đông kia and ngược lại. Những trị giá văn hoá đặc thù ấy đó là đặc trưng văn hoá.
Khi xác định, đánh giá đặc biệt quan trọng văn hoá của một tập thể hay là 1 dân tộc nào đó, có người mang rõ ràng ra thang độ cao thấp (chẳng hạn, e.B. Taylor), có người đề ra tiêu chí khác biệt (F. Boas). trong số ấy, quan niệm tóm rõ ràng văn hoá là việc khác lạ dễ làm ra đồng thuận hơn.
Nói phổ biến, sự khác biệt tạo ra sự đặc trưng; nói riêng ở phạm trù văn hoá, đặc biệt quan trọng văn hoá của mỗi dân tộc trước nhất được minh định dựa bên trên sự đặc biệt giữa văn hoá dân tộc này với văn hoá dân tộc khác. Ví dụ điển hình, đặc biệt quan trọng văn hoá Mỹ là coi trọng quy tắc, văn hoá Ấn Độ là tính khoan dung, văn hoá Trung Hoa là trọng tôn ty, văn hoá non sông ta là trọng chung thủy
Cội nguồn văn hoá và sự thể hiện văn hoá dân tộc
Theo giới nghiên cứu ngoài nước & nội địa (10,11,14), khi khám phá văn hoá Việt, người ta nhận ra mối liên lạc rất rõ ràng giữa sự nhiều loại về ĐK thoải mái và tự nhiên và tính phong lưu về văn hoá.
Trước nhất, quốc gia ta ở trong một chân trời tự nhiên nước, sông nước xung quanh con người; nhân tố này chiếm vị trí đáng chú ý, chi phối, tác động đến nhiều mặt trong cuộc đời không gian.
Về nghề nghiệp, nghề trồng lúa nước là chủ chốt với kỹ thuật canh tác: cấy, gieo, vãi, tỉa, trồng; cày, bừa, gặt, đập… và một nền móng thống thuỷ lợi bộc lộ công sức của con người trong ứng biến với nơi (nước) and nghề nghiệp (trồng lúa nước): đê, nơi, hồ, đập, mương máng…
Về ăn ở, hoạt động và sinh hoạt, phong tục tập quán, những đặc tính văn hoá này cũng in đậm dấu ấn của nơi sông nước. Ẳn trọng điểm là cơm (sản phẩm từ lúa nước), với các thức ăn là cá, tôm, cua, mực (các loài sinh vật dưới nước).
Tạm kết
Hiện nay, lịch sử văn hóa Việt Nam đang đứng trước những thách thức của kinh tế xã hội và xu hướng toàn cầu đang ngày càng phát triển. Dân tộc Việt Nam luôn bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc càng lớn mạnh ra khắp thế giới. Cảm ơn đã đọc!
Quỳnh Như
Nguồn: (asean2020.vn, nguoivietnam.vn, ditichlichsu-vanhoahanoi.com)